Xác định các tham số sinh học của 4 loài cá biển (Chẽm, Giò, Song chấm nâu và Chim vây vàng) phục vụ đánh giá sức tải môi trường vùng nuôi
Từ khóa:
Epinephelus coioides, Lates calcarifer, Rachycentron canadum, sức tải môi trường, Trachinotus ovatus, tỷ lệ tiêu hóaTóm tắt
Thí nghiệm sinh hóa trên 4 loài cá biển nuôi phổ biến ở Việt Nam là cá Chẽm (Lates calcariferBloch, 1790), Giò
(Rachycentron canadum Linnaeus, 1766), Song chấm nâu (Epinephelus coioidesHamilton, 1822) và Chim vây vàng (Trachinotus ovatusLinnaeus, 1758) được thực hiện tại đảo Cát Bà, Hải Phòng. Cá thí nghiệm có kích cỡ thương phẩm tương ứng 2, 5, 2 và 0,6 kg/con. Thí nghiệm nhằm xác định các tham số sinh học của loài nuôi (Ap, Af, Ac) và các tham số dinh dưỡng liên quan (Pp, Pf, Fp, Ff, Fc) phục vụ đánh giá sức tải môi trường vùng nuôi. Kết quả cho thấy, tỷ lệ tiêu hóa protein và chất béo trong thức ăn cá tạp của cá Chẽm tương ứng là 92,90 và 93,84%; cá Giò 91,17 và 95,53%; cá Song chấm nâu 95,20 và 96,40%. Tỷ lệ tiêu hóa protein, chất béo và carbohydrate trong thức ăn công nghiệp của cá Chim vây vàng tương ứng là 85,83, 76,47 và 13,68%. Hàm lượng protein và chất béo trong cơ thịt cá Chẽm tương ứng là 19,28 và 6,27%; cá Giò 19,13 và 13,85%; cá Song chấm nâu 17,37 và 7,32%; cá Chim vây vàng 18,31 và 15,08%. Hàm lượng protein và chất béo trong thức ăn cá tạp tương ứng là 16,99 và 7,19%. Hàm lượng protein, chất béo và carbohydrate trong thức ăn công nghiệp tương ứng là 42,01, 9,93 và 27,82%. Trong cơ thịt cá nuôi và cá tạp không có carbohydrate.
DOI:
https://doi.org/10.31276/VJST.64(12).60-64Chỉ số phân loại
4.5
Tải xuống
Đã xuất bản
Ngày nhận bài 30/5/2022; ngày chuyển phản biện 2/6/2022; ngày nhận phản biện 16/6/2022; ngày chấp nhận đăng 20/6/2022